Nhiều năm dẫn dắt đội tuyển quốc gia và giữ vai trò trưởng bộ môn karate hà nội, có thể nói, võ sư phạm quốc trọng là một trong những chuyên gia có uy tín bậc nhất trong làng võ cả nước. Với bể dày cống hiến, ông đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc xây dựng nên karatedo miền bắc nói riêng và cả nước nói chung. Cho đến bây giờ, sau mấy chục năm trải qua những thăng trầm, đứng trên nhiều cương vị, võ sư Phạm Quốc Trọng vẫn giấu một bí mật – đó là cái duyên của ông đến với nghiệp thể thao.

Xuất thân từ một gia đình cả bố và mẹ đều làm trong ngành y, chính vì thế, ông cũng được hướng đi theo cái nôi đã có. Tuy nhiên, với niềm yêu thích bóng đá từ nhỏ, Phạm Quốc Trọng lại đăng ký nguyện vọng thi đại học của mình là Đại học Kiến trúc và Đại học TDTT Bắc Ninh. Cuối cùng, theo tiếng gọi của “tình yêu”, ông đã chọn Thể dục thể thao. Đáng tiếc rằng sau kỳ thi ấy, ông thiếu nửa điểm và học dự bị khóa 11 năm 1974. Sau một năm “dùi mài kinh sử” ông không những đỗ mà còn trúng tuyển suất đi học của nhà nước tại Đại học TDTT quốc gia Ukraina (Liên bang CHXHCN Xô Viết) với chuyên ngành bóng đá từ 1977-1982. Một “bí mật” thật sự thú vị của ông.
Trong thời gian học tập tại Liên Xô, ông may mắn gặp ông Hoàng Vĩnh Giang (đang làm nghiên cứu sinh Phó Tiến sĩ), người đang ấp ủ hoài bão muốn đưa các môn thể thao Olympic hoặc đã quốc tế hóa mạnh mẽ về Việt Nam như đấu kiếm, Judo, Karatedo… Nhận thấy định hướng đó là rất đúng đắn, chàng sinh viên trẻ Phạm Quốc Trọng đã bắt đầu tìm hiểu và tập luyện đồng thời cả Đấu kiếm lẫn Karatedo.
Ngày qua ngày, cùng với thời tiết khắc nghiệt của mùa đông, gần như ngày nào, chàng sinh viên ấy cũng miệt mài trên sàn tập từ chiều cho tới gần nửa đêm. Với nhiệt huyết của tuổi trẻ cộng với định hướng của nhà thể thao Hoàng Vĩnh Giang, ông hăng say học hỏi và tập luyện, ngoài bóng đá là chính khóa còn có cả 2 môn thể thao kể trên nữa. Ngọn lửa cứ thế được ông nung nấu dần lớn lên.
Tốt nghiệp với tấm bằng đỏ loại xuất sắc trong tay, ông về nước và nhân công tác tại Sở TDTT Hà Nội vào tháng 8/1982. Được sự ủng hộ phát triển của Phó Giám đốc Sở lúc đó là ông Hoàng Vĩnh Giang, ông tham gia huấn luyện Đấu kiếm và Karatedo cũng như gây dựng phong trào với hai môn thể thao này. Có những thời điểm, chính ông kiêm luôn HLV và VĐV thi đấu môn kiếm ba cạnh. Từ năm 1983, Karatedo được đẩy mạnh phát triển với chủ trương của Sở mở các Câu lạc bộ đặt nền móng cho Karate Hà Nội khẳng định đơn vị đi đầu tại miền Bắc.
Đặc biệt, việc gây dựng phong trào tập luyện Karatedo không chỉ ở Hà Nội và một số địa phương, Sở TDTT còn chỉ đạo giúp đỡ thành lập các đội của các ngành Công an nhân dân, Quân đội, Giáo dục cùng với một số tỉnh thành lân cận. Võ sư Phạm Quốc Trọng đã đến tận từng đơn vị thuyết phục để phát triển Karatedo.
Sau hơn chục năm làm công tác huấn luyện, cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, ông Trọng đã nhận ra không chỉ Kumite mà Kata cũng có tiềm năng giành được thành tích cao tại khu vực và thế giới. Ông đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của Sở TDTT và của Liên đoàn Karate Nhật Bản từ năm 1989. Năm 1992, ông thi đỗ trọng tài quốc tế cấp châu Á, sau này ông trở thành thành viên hội đồng trọng tài Liên đoàn Karate thế giới từ 2000-2010.
Một dấu mốc lớn đối với Karate Việt Nam chính là tại SEA Games 17 năm 1993 ở Singapore, trên cương vị HLV phụ trách đội tuyển quốc gia đi “chinh chiến” lần đầu tiên tại đấu trường khu vực, học trò của ông là Nguyễn Anh Tuấn và Trần Văn Thông đã giành 2 tấm HCV (nội dung kumite). Đó cũng là tiền đề để ngay sau đó tại ASIAD 1994 diễn ra tại Nhật Bản, Karatedo Việt Nam lại giành được 2 HCB. Trên cương vị là Trưởng bộ môn Karatedo Hà Nội, vừa làm quản lý, vừa huấn luyện, trong những năm dẫn quân
“hội nhập” với quốc tế, ông luôn ấp ủ sẽ tổ chức một giải đấu chính thức tại Hà Nội. Nhờ sự ủng hộ của lãnh đạo Sở TDTT, trong giai đoạn từ 1989-1996, ông – Trọng cùng các cộng sự đã tổ chức rất thành công các giải quốc tế, đồng thời giúp các VĐV của chúng ta có nhiều cơ hội hơn để cọ xát với các đối thủ mạnh nước ngoài.
Cho đến năm 2003, một lần nữa ông lại chứng minh sức mạnh của KaratedoViệt Nam tại SEA Games 22 ở quê nhà. Đặc biệt là nội dung Kata khi đó được xác định là mũi nhọn của Karatedo Việt Nam. Trước đó, ở SEA Games 21, tận dụng triệt để lợi thế chủ nhà, Malaysia đã lấy mất ít nhất hai tấm HCV chỉ riêng ở nội dung Kata. Chính vì thế, ông mong muốn một môi trường thể thao công bằng khi mà thực lực các VĐV của Việt Nam có chứ không dựa vào trọng tài. Đúng như vậy, 14 HCV giành được với hơn một nửa của các VĐV Hà Nội, trong đó 4 tấm HCV Kata đều thuộc về các võ sĩ Thủ đô trong sự thán phục của chính nước chủ nhà của kỳ SEA Games trước và các nước trong khu vực. Với thành tích này, ông đã vinh dự nhận Huân chương lao động Hạng Ba với những đóng góp của mình trong sự phát triển không chỉ của Karatedo Hà Nội mà còn của cả nước.

Không chỉ có thế, cô học trò Nguyễn Hoàng Ngân đã giành tấm HCV tại giải Vô địch Karatedo thế giới 2008 trên chính đất nước sản sinh ra môn võ này. Một phần thưởng thực sự đối với ông trong nhiều năm cống hiến. Đằng sau thành công của “nữ hoàng Kata Việt Nam” có công không nhỏ của chính ông – người đã định hình, nuôi dưỡng nhiều tài năng võ thuật cho nước nhà. Để sánh ngang tầm thế giới, không chỉ sát cánh bên người học trò ưu tú Nguyễn Hoàng Ngân trong các giải đấu, ông còn là người luôn bên cạnh, hỗ trợ nhiều học trò trong hành trình đưa võ thuật đến gần hơn với mọi người và lan tỏa những giá trị thanh cao, tốt đẹp trong đời thường.
Cho đến tận bây giờ, khi đã về hưu, ông vẫn luôn theo dõi từng bước đi của Karatedo Hà Nội và đau đáu một nỗi niềm trăn trở làm sao tiếp tục đẩy mạnh phong trào tập luyện Karatedo, các VĐV được thi đấu Cọ xát nhiều hơn bởi chỉ có vậy mới thiết thực nâng cao thực lực của chính các VĐV, như ông hay nói rằng “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.